VÀI CẢM NHẬN VỀ THƠ
VĂN THÙY “DỊ NHÂN”
*
Nghèo mà tài không được
bằng ai nên tôi chọn sách (viết và kinh doanh sách) làm nghề kiếm kế sinh nhai.
Ngót nghét hai mươi năm với nghề, khi thấy nghề sách có dấu hiệu “suy thoái”,
tôi quyết định bỏ nghề, “về hưu” và tìm thú tiêu khiển với facebook... Lên
mạng, tôi chăm chú đọc những bài về văn hóa tín ngưỡng, về đối nhân xử thế...
chứ không mặn mà với thơ, truyện vì... ngại đọc, sợ phải “động não” nhiều nên khi thi sĩ
Nguyễn Đăng Hành rủ Văn Thùy “dị nhân” đến thăm nhà - ở làng Đá, Ân Thi, Hưng
Yên - tôi mới biết ông là thi sĩ cùng quê, là kẻ bấy lâu được giới văn chương
“phong tặng” là “dị nhân”, là “lục bát giang hồ”... Cầm mấy tập thơ ông đề
tặng, tôi cám ơn cho phải phép rồi cất vào tủ sách. Đêm. Ám ảnh bởi cuộc nói
chuyện của ông, tôi vùng dậy “lôi thơ” của ông ra đọc.
Tôi thật sự bị thơ ông
cuốn hút!
Ông tung hứng, nhảy múa
với từng câu chữ. Ông bắt người đọc phải trầm trồ, ngả mũ vì cách chơi chữ táo
bạo mà đắc địa: Phải tay này gặp Thị Màu
/ Chẳng sưng đầu mõ, cũng nhàu vú chuông... hay: Ngón tay ngọng mấy đốt rồi / Kể là
chín vía chột mười cũng xong.
Câu chữ, qua sự nhào nặn
của ông - của “dị nhân” Văn Thùy - trở nên sinh động, nhuần nhuyễn và tài hoa: Nửa đời bám gió leo mây / Hôm nay
ngồi phệt mặt đầy rong rêu... hay: Con xuôi ngược nửa kiếp người / Vẫn
quanh lọn tóc rã rời mái gianh.
Viết về tình yêu với vợ
(cũ), người phụ nữ từng nhiều năm đầu gối má kề, ông dành cho bà những lời dịu
dàng, đằm thắm: Bao nhiêu chữ nghĩa hương hoa / Cũng
bay về phía thật thà ngày xưa; bằng trải lòng rất thật: Quay về tầm mắt em thôi / Tắm trong
giọt lệ thương người phù sinh. Ông dằn vặt, tự trách,
ông nhận hết phần sai về mình: Nửa đời bám gió leo mây / Hôm nay
ngồi phệt mặt đầy rong rêu / Mải mê thơ phú cánh diều / Bỏ trâu gặm cụt nắng
chiều mồ côi. Tình yêu ông dành cho người vợ nhiều
lắm nên bất chấp tính sĩ diện cố hữu của thằng đàn ông, ông thấp giọng “xin” bà
cho ông cơ hội: Xin em hết sức lượng
tình / Cho tôi tìm lại chính mình hôm qua. Và rồi, cả mãi sau đấy,
khi bà rời xa ông, đã trở thành người phụ nữ “của người ta”, thì tình yêu ông
dành cho bà vẫn âm ỉ. Sau những“Trong nhà luýnh quýnh một người chạy
mưa”, ông ngồi thần người nghĩ
về người vợ cũ. Hình ảnh người đàn ông cô đơn, tuổi xế chiều, cố nén tiếng thở
dài để chặn tiếng khóc chực bật ra trong Nhà Dột như cứa vào tâm trí
người đọc: Giá như đôi đũa chẳng cong / Thì đâu lẻ bóng long đong
chống trời / Giá như… ừ… giá như thôi / Mình không dại dột chia đôi nếp nhà.
Có lẽ là người thất bại
trong hôn nhân nên mặc dù khao khát một tình yêu mãnh liệt, luôn sẵn lòng đắm
đuối với ái tình nhưng những khao khát, đắm đuối ấy luôn gặp phải sự cản trở từ
chính con người ông. Những câu tếu táo, bông đùa: “Vừa ban thông điệp yêu đương / Bỗng
dưng cả bộ dát giường động kinh”, hay “Có gì mạnh đến lạ thường / Yêu suông đã bốn chân giường
còn hai”… tưởng gia vị cho tình
yêu thêm thi vị, máu lửa thì thực ra đó là lời chống chế ngầm của kẻ sợ sẽ bại
trận trong tình yêu. Như con chim sợ đậu phải cành cong, ông đắm đuối, bỏng
cháy với tình yêu nhưng lại dè dặt, e ngại mở lòng với cuộc tình “sắp” đến. Rất
nhiều tính từ (có lúc lại là động từ) như “yêu chay”, “yêu khan”, “yêu
suông”... được ông sử dụng để diễn tả tâm
trạng e ngại, kìm nén những xúc cảm yêu đương: “Yêu chay nên chỉ dám sờ áo thôi”,
“Yêu chay loang lổ mảng tường phong rêu”, “Đã âm thầm nỗi yêu khan”, “Đã thành
hội chứng yêu khan”...
Ông viết nhiều về tình
yêu trai gái, nhưng thường là thứ tình yêu trớ trêu, thuộc lứa nạ dòng gặp phải
trai lơ, bằng thứ ngôn ngữ bình dị của người thôn quê pha chút ngông ngông,
“bất cần” của gã trai “bụi” phóng đãng: Cổng chùa xin tiểu lỏng then / Kẻ trần tục dễ lẻn lên thăm chùa... hay: Em nguyền khổ hạnh ăn
chay / Tôi thề uống cạn đắng cay cõi trần.
Nhưng khi viết về mẹ thì
thơ ông lại trầm lắng mà da diết, từng lời, từng lời như bào xát tâm can, khiến
người đọc day dứt, rưng rưng: Vinh hoa con ướm trên người / Phất
phơ tóc mẹ dệt thời yêu thương / Đã đi nhẵn một con đường / Còn nghe tóc mẹ bốn
phương rối bời / Con đi dọc nửa kiếp người / Vẫn quanh lọn tóc rối thời mái
gianh - (Tóc Rối Của Mẹ Năm Xưa). Hay những câu thơ thật
hay, thật sinh động, được viết bởi tấm lòng của người con hiếu thảo trong Hoài Cảm Tích Cũ khắc sâu trong tâm trí
người đọc: Chân trần mài vẹt đường quê / Lưng
về như đặt đoạn đê giữa nhà / Lá trầu dứt cuống đi xa / Nồng cay hương quế thơm
qua xứ người.
Viết về mảng nào, dù là
tình yêu trai gái hay nhân tình thế thái, thơ ông cũng có sự mượt mà, đằm thắm
của ca dao, pha chút tếu táo, bỡn cợt của dân dã, cộng thêm chút khệnh khạng
của Văn Thùy, đã tạo nên thương hiệu thơ rất riêng, rất “dị nhân” Văn Thùy, dễ
say đắm lòng người.
Trong gia tài thơ ca của
ông, có nhiều câu thơ đặc sắc, thể hiện nét tài hoa đặc biệt của ông, nhưng
thật tiếc, sự lặp lại về tứ, về
ý đến gần như sao y bản chính của không ít câu thơ: “Ngón tay ngọng mấy đốt rồi / Kể là chín vía chột mười cũng xong.” -
“Ngón tay ngọng mấy đốt rồi / Kể là chín ngón hỏng mười cũng xong.”, hay: “Con xuôi ngược nửa kiếp người / Vẫn
quanh lọn tóc rã rời mái gianh.” - “Con đi dọc nửa kiếp người / Vẫn quanh
lọn tóc rối thời mái gianh”..., thậm chí sự tương đối
giống nhau của cả những bài thơ (Xin Em - Xin Em Đừng Mặc
Áo Dày) đã làm thơ ông xuất hiện sự nhàm
chán, nhạt đi và bớt duyên, khiến những người yêu thơ, yêu sự sáng tạo, chỉn
chu sẽ khó chịu, cho rằng ông lười sáng tạo nên mới xào sáo, làm giảm sức hấp
dẫn với chính thơ của mình.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Bài thơ “Văn Thùy
Dị Nhân” của Đặng Xuân Xuyến và những cảm nhậnl
- Thế thái nhân tình
qua thơ Đặng Xuân Xuyếnl
- Tưng tửng 7 chuyện
cùng Nguyễn Đăng Hànhl
*.
Hà Nội, 26 tháng 12 năm
2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét