![]() |
(Đặng Xuân Xuyến năm 2018) |
THẾ THÁI NHÂN TÌNH
qua thơ ĐẶNG XUÂN XUYẾN
*
Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến gửi tặng tập
thơ CƯỠNG XUÂN đã lâu nhưng vì bận nên tôi chưa viết lời cảm nhận được. Hơn
nữa, nhà phê bình Châu Thạch và nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm giới thiệu tập thơ đã
khá công tâm, đã đủ ý, đủ lời nên tôi cũng khó viết thêm.
Bài viết này, giới thiệu một số bài
thơ ở mảng thơ thế thái nhân tình, tức thơ thế sự, của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến,
đã được anh công bố rộng rãi trên các trang mạng nhưng chưa in thành sách, theo
cảm nhận của riêng tôi là hay, lạ và độc đáo. Xin được chia sẻ cùng quý vị.
1.
Quê nghèo là một trong số những bài thơ hay
của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con khi phải chính
kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng
quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm tình của
người đọc, được nhiều tác giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng - hình tượng
độc đáo trong Quê nghèo - lại chỉ được bình thoảng qua, trong
khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn thế.
Tôi nghĩ chiếc cổng làng của Quê
nghèo không còn là cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là
biểu tượng của thể chế đã giam hãm, trói buộc người dân trong đói
nghèo, tù túnǵ... Đấy là tiếng kêu nghẹn uất của nhà thơ về nỗi đau của chế
độ đã đè nặng lên cuộc sống cơ cực, khốn quẫn của người dân. Hình ảnh cái cổng
làng “Sừng sững bê tông cốt thép/ Ngạo
nghễ tượng đài/ Ngạo nghễ trần ai” cũng khiến người đọc liên tưởng tới hiện
tượng cả xã hội thi nhau xây dựng các loại tượng đài để đục khoét ngân khố quốc
gia, làm khổ thêm cuộc sống “trăm đắng ngàn cay” của người dân. Thật đau xót
khi biểu tượng chiếc cổng làng - biểu tượng ngàn đời của văn hóa làng xã Việt
Nam đã bị thể chế hóa, để không chỉ “Giam
hãm đời người/ Tù túng giấc mơ.”, mà còn đầy đọa, đẩy cuộc sống người dân
xót xa đến mức: “Quê tôi nghèo/ Nghèo cả
giấc mơ.”
2.
Ru Con là bài thơ Đặng Xuân Xuyến viết tặng con trai của anh, đã
làm run rẩy, xúc động trái tim người đọc bởi tình yêu con bao la, sự hy sinh
cho con vô bờ bến của người cha. Nhà thơ Nguyễn Đăng Hành khi bình đã bật lên được thần thái của bài thơ:
“Không
một lời kể lể, không một câu đấu tố “kẻ” được gọi là “người lớn” đã “dạy hư”,
làm khổ đứa con bé bỏng của mình, nhưng đã hiện lên hoạt cảnh đầy kịch tính,
xúc động: “Con níu vào giấc ngủ/ Kiếm nụ cười trong mơ”.
Đọc đến đây tôi đã khóc, khóc thật
sự bởi hình ảnh “con níu vào giấc ngủ” chứ không phải níu con vào giấc ngủ -
“Kiếm nụ cười trong mơ” chứ không phải nở nụ cười trong mơ. Động từ “níu” và “kiếm” sử dụng thật đắt và sống động, gây được xúc cảm: Một đứa trẻ
ở lứa tuổi rất ngây thơ trong sáng đã sớm hiểu chuyện, ý thức được thiệt thòi
của mình mà “níu vào giấc ngủ” để “kiếm nụ cười trong mơ”, để tự bù đắp những
thua thiệt cho mình. Và người cha, cảm được những giọt lệ âm thầm của người
con, hiểu được những khao khát, thua thiệt của người con, đã lặng nhìn con ngủ
với những xót xa trĩu nặng. Dù không vạch tội cụ thể “người lớn” nào đã làm khổ
con mình nhưng người đọc vẫn nhận diện ra kẻ đó là ai và cảm nhận được nỗi uất
hận trào dâng trong lòng người cha đối với kẻ nhẫn tâm làm khổ con mình. Đây là
khổ thơ mấu chốt. Cấu tứ đặc biệt này tạo dòng chảy sức sống của bài thơ.
(…) Tiêu đề bài thơ tuy cũ, cấu tứ thơ lại hiền lành
nhưng sự chân thực được cất lên từ tình yêu thương con vô bờ của người cha đã
khiến bài thơ sống động, có sức truyền cảm, làm run rẩy, xúc động trái tim
người đọc. Đấy chính là cái thành công, cái được của Ru Con!”
3.
Lan man và chuyện
thằng bạn viết
theo trường phái siêu thực, một phương pháp sáng tác mà lớp nhà thơ trẻ thường
sử dụng khi muốn làm mới thơ, được chua dòng chữ: tặng nhà thơ Nguyễn Đăng Hành, là bài thơ đã tạo cấu tứ lạ, nét vẽ
riêng trong thơ Đặng Xuân Xuyến.
Khung
cảnh bài thơ là nhà “thằng bạn”, thời
gian là cả ngày và đêm, được vẽ bằng gam màu u ám, rờn rợn, nhuốm đầy tử khí.
Bao chùm bài thơ là không khí ngột ngạt, là tâm lý sợ hãi của nhà thơ - người
dân: “Tôi đã từng sợ tiếng thạch sùng /
nửa đêm tờ lạch tạch não nùng...” và “Tôi
đã từng sợ ma.”... Phải chăng chính bóng đêm tội ác của chế độ đã làm nhà
thơ - người dân luôn
sống trong tâm trạng nơm nớp âu lo hoảng loạn?
Sự giả dối, thói tham lam và bản tính độc ác, đểu giả của
“thằng bạn”, ám chỉ tầng lớp quan lại, được bóc trần nhẹ nhàng, từ từ
khi thời gian là ban ngày (khổ thơ I), nhưng khi thời gian chuyển sang tối đêm
(khổ thơ II) thì mặt nạ của “thằng bạn”
bị lột trần trắng phớ, lộ rõ sự đểu giả, ma mãnh, độc ác. Chỉ cần hình ảnh “thằng bạn” với “những tờ tiền đỏ như rưới máu” cũng đã đủ để vạch trần đó là những
đồng tiền dơ bẩn, tội lỗi, được trấn cướp từ mồ hôi, nước mắt, thậm chí là máu,
là tính mạng của những người dân lương thiện. Có lẽ vì quá hiểu nguồn gốc của
những đồng tiền tội ác đó nên “tôi”,
nhà thơ, không hỏi “tiền nhiều từ đâu”,
và “thằng bạn” cũng biết bạn mình quá
rõ con người mình nên tảng lờ, “tránh
nhắc từ đâu tiền nhiều”. Và, trong cái “Quánh
đêm” “Rờn rợn” “tối lịm” ấy, khuôn mặt “thằng bạn” sau khi bị nhà thơ tróc bỏ
hết lớp “sơn” đã hiện rõ nét là kẻ giả tạo và độc ác: Khuôn mặt bạn/ Vời vợi của thánh nhân/ Ma lanh của ác quỷ. Đến đây,
chả cần xướng danh cụ thể, người đọc vẫn chắc chắn sẽ nhận ra chân tướng đích
thực “thằng bạn” của nhà thơ Đặng
Xuân Xuyến là ai, kẻ đấy là người thế nào, và bản chất “thằng bạn” tệ hại ra sao?...
4.
Khi cảm nhận về bài thơ Tôi
nghe, nhà thơ Chử Văn Long viết: “Mừng
cho ngòi bút tác giả bài thơ “Tôi nghe”nếu không vững tay nghề sẽ đem kể
hàng loạt những vụ tham nhũng biến chất như thế, bài thơ sẽ biến thành một “bản
trường ca bất hảo” trường thiên… đọc sẽ nhàm chán bởi bản chất của xã hội, dù
tha hóa đến đâu vẫn còn lại bao điều tốt đẹp, vị tha, cao cả. Và đoạn thơ thứ
tư bất ngờ xuất hiện: (...) Tám câu thơ gợi hình ảnh tương phản với ba đoạn thơ
trên về màu sắc sáng tối làm nên bức tranh toàn cảnh sinh động mà lâu nay mỗi
khi nghĩ đến thi ca người ta có cảm giác nó là thứ nghệ thuật đã tách ra, đứng
bên lề cuộc sống thì nay nó lại nhập cuộc vào vui buồn thao thức lương tri. Tám
câu thơ ngắn liệm trọn số phận con người nghèo khó ở bất cứ nơi nào khi mà cuộc
sống chưa có công bằng bác ái, ở bất cứ nơi nào mà bọn quan tham còn được che
đậy bởi những lời nói ngoài môi “vì Đảng, vì dân”!
Nhưng tôi không đồng thuận với nhà thơ Chử Văn Long khi
đọc những dòng kết luận của ông về Tôi
nghe:
“Bài thơ không cần đoạn thứ năm: Tôi nghe… / Những mảnh
đời khốn khó / Những anh Vươn sắp trơ lì hãi sợ / Có câu tức nước ắt vỡ bờ
/ Khi niềm tin rạn vỡ.
Bởi chỉ bốn đoạn trên nó đã gây được xung lực, nó đã gợi
lên cho người đọc, dù vô tâm đến đâu cũng phải khơi dòng không thể để “tức nước
vỡ bờ”. Nhìn lại những trận đại hồng thủy từng qua, cuối cùng vẫn lại dân đen
chìm nổi cùng với đau thương gánh chịu.”
vì khổ thơ cuối không chỉ là lời cảnh tỉnh tới chế độ mà
còn là khí phách dũng cảm của người cầm bút trước hiện trạng đau thương của đất
nước. Thử hỏi khi mà ngàn vạn nhà thơ nhà văn, nhất là những nhà văn nhà thơ
“Quốc Doanh” đang ỉ ôi than khóc với những tình anh tình em vô bổ, thậm chí còn
đầy độc hại vì tính ru ngủ xã hội, thì mấy ai đã dũng cảm viết ra những dòng
thơ nóng bỏng tình người, sục sôi tính chiến đấu như thế?.
5.
Bài thơ Lan man và chuyện đàn cừu cũng viết theo trường phái siêu thực, khước từ sự chú
giải, phân tích theo lối thủ cựu, được chua dòng chữ: tặng nhà thơ Vũ Đình Ninh, chủ bút trang Văn Đàn Việt.
Bài thơ gồm 2 khổ. Khổ đầu là phân cảnh, là tâm trạng của
những con người thuộc tầng lớp lao động, thuộc lớp dưới nhưng lại chiếm số đông
trong xã hội, vất vả, cơ cực mà vẫn phải chịu cảnh đói nghèo, lam lũ... Với
khát khao, mơ ước tương lai được tươi sáng, tốt đẹp hơn, “tôi” - nhà thơ, và số đông trong xã hội - đã không ngừng phấn đấu,
không ngừng tin tưởng, để rồi “tôi”
phải cay đắng thốt lên: “Hình như”...
Câu “hình như...” nghe chua xót, tắc
nghẹn nơi cuống họng làm tái tê, rức buốt nỗi lòng. Một tứ thơ “lạ” và mới.
Sang khổ 2, nhà thơ tiếp tục câu
chuyện của mình nhưng “lan man”
chuyện khác, chuyện của đàn cừu: Đàn cừu/
Ngoài kia... Cấu trúc bài thơ thay đổi. Cấu trúc đoạn thơ cũng thay đổi: Con đầu đàn vừa bị hóa kiếp/ Cả đàn chết
khiếp/ Lẩy bẩy/ Chen đẩy/ Vào chuồng/ Ông chủ oang oang/ Bà chủ nhẹ nhàng/ Đàn
cừu/ Im lặng/ Cúi xuống/ Nhai... Cách ngắt câu thành nhiều nhịp để
diễn tả sát từng cung bậc tâm trạng: khiếp sợ, cam chịu,... của “đàn cừu”, tượng trưng cho những kẻ bị
trị, cùng với cách sử dụng ngôn ngữ “cũ mới nương nhau”, đã đẩy bài thơ lên tầm
cao.
6.
Bài thơ Văn Thùy “dị nhân”, được 2 nhà thơ
Chử Văn Long và Nguyễn Đăng Hành cảm mến viết lời bình, nhưng tôi
thích bài của nhà thơ Nguyễn Đăng Hành hơn vì ông đọc được cái hồn cốt, cái
thần của bài thơ:
“Đọc Văn
Thùy “dị nhân” của Đặng Xuân Xuyến tôi thấy người gai gai, rạo rực, cứ ngỡ
bài thơ này là viết về mình, viết cho mình vì thấy có bóng dáng tôi ở trong đó.
Tôi tin, khi đọc Văn Thùy “dị nhân”
sẽ không ít người thơ, nhà thơ có tâm trạng, cảm giác gai gai, rạo rực giống
tôi. Đó chính là thành công của bài thơ, của nhà thơ. Thường thì những bài thơ
đi vào lòng người là tuy viết về một người mà có hình ảnh của nhiều người, viết
cho một người mà như viết cho nhiều người. Đó là thứ thơ có chất trời, chất
đời, chất người. Văn Thùy “dị nhân” là
bài thơ như thế.
(…) Bài thơ không hề kể lể, chau chuốt hay dụng công đắp vẽ mà cứ hồn nhiên,
nhịp nhàng, đầy tràn “ứ hự”... Hai câu “Cả đời/ Đánh đổi” đã dựng lên, đã thắt
lại cái triết luận: Tất cả là luân hồi, nhân quả và vô thường. Sự thành bại là
sự đánh đổi của cuộc đời. Chữ “đánh đổi” đúng là “nhãn tự”, là lò so co giãn
của bài thơ, như sợi chỉ xuyên suốt câu từ bài thơ. Nhà thơ tự hỏi “Được gì?”
song lại tự lý giải, bình báo ngay sau đó:“Dăm ba bài thơ dán tem thơ bụi”. Rồi
tiếp: “Thiếu vợ/ Thiếu con/ Đâu phải Kép Tư Bền/ Sao cứ bắt miệng cười tim
héo”. Ôi đau quá! Buồn quá! Tác giả thật khéo ẩn dụ đặt con “tim héo” bên cạnh
“miệng cười”, đọc mà thấy nặng tình nặng nợ. Khiến người đọc ngậm thở rồi mà
phải thượt dài, phải thán phục và công nhận cái giá của sự say sưa, của sự đánh
đổi được mất con chữ thi ca “thơ bụi”. Tôi đồ rằng, khi viết những câu thơ này,
Đặng Xuân Xuyến phải nén lòng lắm để nước mắt khỏi tràn vào câu chữ, để hình
ảnh của Văn Thùy “dị nhân” được sống
động, rất đời: ngông ngạo, tài hoa mà chất nặng đắng cay.”
7.
Trò Đời, sáng tác ngày 08 tháng 05 năm 2017, với dòng chua: kính tặng nhà thơ Nguyễn Khôi, đúng dịp
ông Đinh La Thăng bị thu hồi chức Bí thư Thành Ủy thành phố Hồ Chí Minh, triệu
về Hà Nội, chờ ngày sẽ tra tay vào còng số 8.
Được viết ở thể thơ tự do, Trò Đời là bài thơ khá ngắn, không tuân thủ theo niêm luật mà
viết thẳng đuột, khoáng đạt, đập thẳng và mạnh vào cái thế thái nhân tình đốn
mạt, cạn tàu ráo máng của giới quan chức, của những kẻ khi đương chức đương
quyền thì tận lực tham ô, sống thủ đoạn, bất nhân bất nghĩa nhưng khi nghỉ hưu
thì lại cố rặn ra những câu trơ trẽn bảo nhau “ráng làm người tử tế” như để mà chuộc lỗi những năm tháng làm quan
hút máu dân đen, sống như phường cầm thú.
Mượn giọng bất cần của một ông quan đang bị thất thế để
lột trần bộ mặt đểu giả của chốn quan trường, nhà thơ ngông nghênh chửi đời,
chửi bản chất chốn quan trường là “lưu
manh”, “Đếch có chữ tình”, là “truy cùng diệt tận” đối thủ chính trị
cho dù đối thủ ấy đã “Thất thế sa cơ”,
đang cố diễn trò “Ráng
“làm người tử tế””...
Câu kết bài thơ: Ngã
ngựa rồi mới thèm một chữ NHÂN, không chỉ là sự trả giá của gã quan thất
thế, đang hoặc sẽ bị đối thủ chính trị “truy
cùng diệt tận” mà còn là lời cảnh tỉnh cho những kẻ đang làm quan, sẽ làm
quan hãy sống cho tử tế, cho ra một con người để có đường lùi, có sự an toàn
khi hạ cánh.
Chữ NHÂN là nhân tâm, là phần NGƯỜI trong 2 chữ CON NGƯỜI
thật đáng quý làm sao!
8.
Khi bình về bài thơ Bạn Quan, nhà thơ Chử Văn Long hạ
bút:
“Tôi thật ngưỡng mộ
vì nội dung, giọng điệu, câu chữ già dặn, từng trải, vừa tiếp thu cách nhìn
đời, nhìn người của các lớp nhà thơ cha anh mỗi khi bĩ cực, nhưng hơn hẳn lớp
nhà thơ ăn theo xã hội bây giờ, khi vui thì vỗ tay vào, hết lộc thì thở ra
những lời ai oán vụn vặt làm người đời chán đọc thơ vì vậy.
Thơ Đặng Xuân Xuyến cũng mượn hơi
men “giả tỉnh giả say” như để có cớ lôi tuột những mưu mô giả trá của một xã
hội đang thịnh hành, đang phân hóa, làm đảo lộn hết đạo đức, nhân cách, làm
người dù chỉ giới hạn bằng những lời bộc bạch, tâm sự của hai người bạn lâu
ngày gặp lại, có nhu cầu phơi trải lòng mình thật đến nỗi chỉ thiếu cái tát
bằng những ngón tay in lên mặt nhau, dù làm quan có chức tước giàu sang hay là
dân ngu ngơ, nghèo túng, khi nhìn lại đời mình đều nhục, chưa thấy xứng kiếp
người, tự mình thấy mình như súc vật, kiếp ngan, kiếp chó....
Tình bạn xa lâu ngày gặp lại nhau, người ta thường ôn lại
kỷ niệm trong lành một thuở, rồi mới có nhu cầu hỏi han công việc hiện tại gia
cảnh của nhau. Đằng này có tình bạn ngày xưa của họ chỉ phụ họa thêm cho nỗi ấm
ức về những rối ren, bất công xã hội. Thằng học giỏi không sống thủ đoạn thì
làm dân quèn, thiếu cơm rách áo. Thằng học ngu, biết nịnh nọt cúi luồn vẫn có
thể mua được chức tước lên quan để kiếm bổng lộc bạc vàng, thành ra cuộc gặp gỡ
nơi chôn nhau cắt rốn lại là cái cớ để nổ ra cuộc vạch mặt chỉ tên những bất
công xã hội đang ấm ức nơi lòng mỗi kẻ.
Bài thơ thành bữa tiệc giữa hai người bạn thết nhau vị
ngọt bùi, cay đắng tình thân, vừa là của riêng, lại vừa dọn mời người đọc nhâm
nhi, cụng chén ở những năm tháng đời người thật ít điều vui, ít tình thân thiện
và gần như không còn thứ tình cảm tri kỉ mà ông cha ta đã ngìn năm trồng cây
cho gỗ nên trầm. Giờ rừng bỗng dưng bị đốn trụi. Tình người rồi sẽ sao đây!
Đặng Xuân Xuyến đã gửi tâm sự lòng mình vào thơ cho vơi ấm ức! Có lẽ chỉ còn
thơ có thể an ủi anh chăng!”
9.
Nhớ Mẹ viết theo cách cũ. Hình ảnh về mẹ rất gần gũi, thân thuộc, rất đẹp trong ký ức mọi
người: Mẹ gửi đồng xa tiếng cười / Mẹ
mong đơm mùa trĩu hạt / Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát.... Những hình ảnh tương
tự như thế đã được nhiều nhà thơ sử dụng, nhưng những câu thơ cất lên từ trái
tim hiếu thảo của người con, với những hình ảnh sống động, sâu lắng về Mẹ: Nhớ những chiều nắng tắt / Kẽo kẹt gánh rau
mẹ vội về nhà / Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà... và: Cha ở phương xa / Chúng con còn bé dại /
Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai... rất của riêng Mẹ của Đặng Xuân Xuyến mới
làm nao lòng người, mới gợi được cảm xúc nơi người đọc, lấy được cảm xúc của
người đọc.
Bài thơ được đẩy lên cao trào, lấy thêm nước mắt của
người đọc khi thẩm tiếp những câu “tan nát cõi lòng” của người con hiếu thảo: Con muốn hỏi trời cao / Con muốn cào đất
rộng / Đâu là lẽ công bằng / Mẹ một đời nhân hậu thẳng ngay / Sao lắm cơ cực
đắng cay / Lặng thầm qua đời mẹ... Hình ảnh người con trai: Ngửa mặt nhìn trời tay con nắm chặt / Nước
mắt ngược vào tim mặn chát... để chất vấn trời cao, chất vấn số phận... đã
cứa vào tim người đọc. Ở khổ thơ thứ 3 này, nhà thơ lần nữa thể hiện tay nghề
vững, thể hiện sự rành rẽ về tâm tư, tình cảm và những yếu mềm của trái tim...
để viết lên những câu thơ rung động lòng người, dâng lên Mẹ.
Chưa hẳn là bài thơ tuyệt hay, thật đặc sắc nhưng Nhớ
Mẹ của Đặng Xuân Xuyến là một trong số những bài thơ hay và đẹp về lòng
hiếu thảo.
10.
Bài thơ “Về quê đi mày” cũng là bài thơ hay,
chan chứa tình của Đặng Xuân Xuyến với bè bạn, quê hương. Tôi thật sự ấn tượng
khi đọc nhà văn Dương Ninh Ninh cảm Về
quê đi mày với những dòng:
““Về quê đi mày”, thoạt nghe tưởng như đây
là tiếng nhà thơ nhắn gọi người bạn cũ. Nhưng tĩnh lòng lại, ta sẽ nhận ra đó
không phải là tiếng gọi thực của nhà thơ mà là những âm vang của thời thơ dại.
Cái thời thơ dại ấy tuy đã qua đi lâu rồi nhưng nó vẩn còn lưu bóng dáng những
kỷ niệm về nó trong tâm hồn mỗi người. Sau mấy chục năm, bươn trải trong
thực tế phũ phàng của cuộc sống, mê mải trong những toan tính khôn ngoan của
người lớn và đứng trước biết bao cơn bão tinh thần muốn xô đổ những giá trị
tình cảm đạo đức, tưởng như những dấu vết ngây ngô của thời thơ dại ấy đã bị
xóa nát. Nhưng không, nó chỉ ngủ yên trong lòng mỗi người để khi có dịp thì
thức dậy. Với nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cũng thế, khi anh nhớ tới người bạn hiền
đã biền biệt “hai mấy năm trời” thì cũng là lúc những kỷ niệm thời thơ dại
của đôi bạn bừng thức dậy trong lòng anh, âm vang thành những tiếng thơ đầy
khao khát được gặp lại bạn để cùng nhau về quê ôn lại thời thơ dại ấy, bởi chỉ
có về quê mới có thể tìm lại những dấu vết ngây ngô khờ khạo nhưng hồn nhiên
trong sáng vô tư đã qua đi rồi ấy.
Cái hay của tiếng gọi “Về quê đi mày” là ở đấy, ở chỗ nó vừa ảo vừa thật. Và vì thế
tôi thích bài thơ này của Đặng Xuân Xuyến.”
&.
Vài cảm nhận cá nhân về một số bài thơ của nhà thơ Đặng
Xuân Xuyến, có gì bất cập, mong nhận được ở quý vị sự lượng thứ.
*.
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Cộng Hòa,Thanh Nê, Kiến Xương, Thái Bình.
Email:
dovantuyenbk@yahoo.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét