Cuống quýt với thơ
Lử đử cùng thơ
Say thơ như điếu đổ.
Cả đời
Đánh đổi
Được gì?
- Dăm ba bài thơ dán tem "thơ bụi'. (1)
Thiếu vợ
Thiếu con
Đâu phải Kép Tư Bền
Sao cứ bắt miệng cười tim héo.
Đời lắt léo
Phận eo sèo
Thây kệ thế gian úp mở.
Giả ngố
Mượn chữ bày trò
Vác thơ
Tưng tửng.
................
(1): Chữ dùng của nhà thơ Nguyễn Khôi
*.
Ân Thi, đêm 22 tháng 04.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VĂN THÙY - DỊ NHÂN HAY KỲ NHÂN
Đọc Văn Thùy “Dị Nhân” của Đặng Xuân Xuyến
tôi thấy người gai gai, rạo rực, cứ ngỡ bài thơ này là viết về mình, viết cho
mình vì thấy có bóng dáng tôi ở trong đó. Tôi tin, khi đọc Văn Thùy “Dị
Nhân” sẽ không ít người thơ, nhà thơ có tâm trạng, cảm giác gai gai, rạo
rực giống tôi. Đó chính là thành công
của bài thơ, của nhà thơ. Thường thì những bài thơ đi vào lòng người là tuy
viết về một người mà có hình ảnh của nhiều người, viết cho một người mà như
viết cho nhiều người. Đó là thứ thơ có chất trời, chất đời, chất người. Văn Thùy “Dị Nhân” là bài thơ như
thế.
Bài thơ không hề kể lể, chau chuốt hay dụng công
đắp vẽ mà cứ hồn nhiên, nhịp nhàng, đầy tràn “ứ hự”...
Này nhé:
Cuống quýt với thơ
Lử đử
cùng thơ
Say thơ như điếu đổ.
không tả trời, không tả đất, không tả người... mà
hình dạng thi nhân đã ngất ngưởng bước ra. Cứ cái đà đồng đảo này thì thi nhân
sẽ “kinh thiên - động địa” chẳng khác Nguyễn Công Trứ, chẳng kém Tú Xương,
nhưng không, tác giả đã cho người đọc biết mình nhầm để tỉnh ngay khi đọc tiếp
đến câu thơ nhẹ nhàng mà thôi thúc, ngắn gọn mà súc tích, tĩnh mà tỉnh:
Cả đời
đánh đổi
được gì?
Hai câu “Cả
đời/ Đánh đổi” đã dựng lên, đã thắt lại cái triết luận: Tất cả là luân hồi,
nhân quả và vô thường. Sự thành bại là sự đánh đổi của cuộc đời. Chữ “đánh đổi” đúng là “nhãn tự”, là lò so co
giãn của bài thơ, như sợi chỉ xuyên suốt câu từ bài thơ. Nhà thơ tự hỏi “Được gì?” song lại tự lý giải, bình báo
ngay sau đó: “Dăm ba bài thơ dán tem thơ
bụi”.
Rồi tiếp:
Thiếu vợ
Thiếu con
Đâu phải Kép Tư Bền
Sao cứ bắt miệng cười tim héo
Ôi đau quá! Buồn quá! Tác giả thật khéo ẩn dụ đặt
con “tim héo” bên cạnh “miệng cười”, đọc mà thấy nặng tình nặng
nợ. Khiến người đọc ngậm thở rồi mà phải thượt dài, phải thán phục và công nhận
cái giá của sự say xưa, của sự đánh đổi được mất con chữ thi ca “thơ bụi”. Tôi
đồ rằng, khi viết những câu thơ này, Đặng Xuân Xuyến phải nén lòng lắm để nước
mắt khỏi tràn vào câu chữ, để hình ảnh của Văn Thùy “dị nhân” được sống động,
rất đời: ngông ngạo, tài hoa mà chất nặng đắng cay.
Tác giả thơ lại tiếp tục điềm tĩnh, công tâm,
phán nhận: “Đời lắt léo/ Phận eo sèo”
rồi nhập tâm nhập thần mà nói hộ tâm trạng, bản lĩnh của Văn Thùy “dị nhân”: “Thây kệ thế gian úp mở”.
Những câu thơ: “Giả ngố/ Mượn chữ bày trò/ Vác thơ/ Tưng
tửng”
được
cất lên bằng giọng điệu bất cần và hài hài, đã khắc họa nổi bật lão thi sĩ với
hình ảnh ngạo ngạo, ngông ngông, dị dị mà tài hoa và bản lĩnh. Thử hỏi, không
tài hoa, không bản lĩnh thì làm sao lão thi sĩ có thái độ ngông ngạo, bất cần:
“Thây kệ thế gian úp mở”? Không tài
hoa, không bản lĩnh thì lão “dị nhân” có thể “mượn chữ bày trò” khiến thiên hạ phải mắt tròn mắt dẹt?! Hình ảnh
thi sĩ “vác thơ/ tưng tửng” khiến ta
liên tưởng nghĩ tới hình ảnh Đức Chúa Giê Su vác cây thánh giá đi khắp cõi
truyền giảng đạo, cứu nhân độ thế. Đọc đến đây, đến câu cuối bài thơ thì cái
dáng dấp hình thể, cái thần thái hồn vía của lão thi sĩ dị nhân ngất ngưởng,
ngông ngạo, không phải là Văn Thùy “dị nhân” thì là của ai mà nhập hồn nhập
bóng này được?! Văn Thùy xứng lắm chứ. Chân dung này thật xác thực và sống
động. Nó cựa quậy đồng đảo lắm chứ. Tôi đồ rằng, tác giả vẽ chân dung này phải
là người có tài quan sát và tinh tế lắm mới có thể khắc họa “hô sĩ nhập hồn” chân dung quậy sĩ dị
nhân Văn Thùy thêm kỳ kỳ, ngộ ngộ.
Xin thưa, vì tôi cũng có quen biết Văn Thùy, có
biết chút ít về ông: Ông là người tài hoa (chụp ảnh siêu, vẽ họa giỏi), thơ hay
và chí khí tang bồng hồ thỉ nhưng phần gia cảnh thì hình như hơi thiệt thòi,
công danh cũng chẳng thuận... Nên tôi đánh giá bài thơ Văn Thùy “Dị Nhân”
này là bài khá, vì tác giả không kể lể kẻ vẽ mà đã khảo dựng được chân dung một
con người thơ thật thơ, cho thơ tử vì đạo...
Nếu cho phép tôi được góp
ý thì tác giả bài thơ vì tính cẩn thận và thực thà quá nên dễ gây cho đọc giả
cảm tưởng tác giả be chắn tỉ mẩn, bày biện chữ nghĩa. Trong chữ phải chứa đủ
tình - cảnh - sự cho suy tưởng hình tượng thơ sống động. Thơ càng vô lý càng
tuyệt, càng chủ quan càng hay. Thơ phải là phi lý, là ảo, là mở mang khơi gợi.
Những câu thực thà máy móc đã làm giảm chất say của thơ. Ví dụ như câu thứ 3: “Say thơ như điếu đổ” thì chữ “say thơ” chưa đắt vì chính 2 câu “Cuống quýt với thơ/ Lử đử cùng thơ” đã
thấy cái say rồi còn nhắc tới “say thơ”
làm gì? Giá như tôi, tôi sẽ sửa là “Biêng
biêng điếu đổ”. Hoặc câu “Dăm ba bài
thơ dán tem thơ bụi” thì cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều không sát với Văn
Thùy. Thực thì người đời - làng thơ đã công nhận loạt bài, phong cách thơ Văn
Thùy là “Thơ bụi” rồi nên chăng sửa
là “Loạt bài thơ bụi”. Hay câu 15: “Giả ngố” thật quá đã tố sự nghiệp, tố
chân dung “dị nhân”, làm giảm hình tượng đẹp của 2 câu kết mà chính tác giả
Đặng Xuân Xuyến đã kỳ công tạo dựng: “Vác
thơ/ Tưng tửng”. Đành rằng Văn Thùy
biết và cảm rất rõ những mất mát của đời mình và ông phải “giả ngố” để mua vui,
để tự xoa dịu nỗi đau của đời nhưng đấy là đời, là cuộc sống thực của Văn Thùy
nhưng khi vào thơ sao Đặng Xuân Xuyến không cho là “Ngố ngố” hoặc “Quá ngố” để
hình ảnh Văn Thùy “dị nhân” bớt đời đi để thơ hơn?!
*
Hà Nội, 28 tháng 04.2017
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã Đa Tốn
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét